Tính cơ động M1 Abrams

Động cơ của xe tăng Abram là động cơ AGT-1500 đa nhiên liệu kiểu turbine khí. Động cơ turbine khí nhỏ hơn và có ít bộ phận hơn và ít ồn hơn so với động cơ piston có cùng công suất. Tuy nhiên động cơ turbine khí tốn nhiều nhiên liệu hơn và toả nhiều nhiệt hơn so với động cơ piston. Các biến thể của M1Abram có tầm hoạt động (khi mang đầy nhiên liệu) trong khoảng 350–410 km, trong khi đó các loại xe tăng của Nga có tầm hoạt động trong khoảng 600–700 km. Do vậy, M1Abram đòi hỏi nhiều xe vận tải để tiếp nhiên liệu hơn so với xe tăng Nga.

Động cơ AGT-1500 có trọng lượng khoảng 3,855 kg. Có thể thay thế các phần riêng rẽ của hệ thống động cơ-truyền động mà không cần phải lấy nguyên toàn bộ hệ thống ra. Thời gian để lấy toàn bộ động cơ và hệ thống truyền động tự động chỉ mất 1h (đối với M60 là 4h). Để khởi động, M1 ngốn 34 lít xăng JP-8. M1 có thể tăng tốc từ 0 lên 32 km/h trong 7s. Nguyên lý hoạt động của động cơ turbine khí là hút không khí vào trong một máy nén có áp suất cao. Tại đây, không khí được trộn với nhiên liệu và đốt cháy. Luồng hơi nóng có áp suất cao từ máy nén thổi tiếp vào trong làm xoay cánh quạt turbine, vận hành động cơ. Sau đó luồng hơi được thải một phần, một phần luồng hơi được đưa vào bộ thu hồi khí để sử dụng lại. Hệ thống bánh răng truyền động truyền lực xoay của cánh quạt vào 2 bánh xe chủ động ở sau xe. Cuối cùng, động cơ của M1 là loại không khói.

Một chiếc M1 Abrams đang làm nhiệm vụ cảnh giới tại một vị trí quân sự ở phía Tây Nam thủ đô Baghdad, Iraq

Hệ thống treo của M1 bao gồm 7 thanh đòn nối với bánh xe đi đường ở mỗi bên thân xe. Các thanh đòn này có trục ở giữa để gắn hai bánh xe đi đường lại với nhau thành một bánh đôi. 14 thanh đòn này được nối với nhau bằng các thanh xoắn làm từ thép có độ cứng cao. Các thanh xoắn này chạy ngang thân xe, nối 2 thanh đòn ở hai bên sườn lại với nhau. Hệ thống truyền động của M1 cho phép bánh xe đi đường có thể di chuyển lên xuống 38 cm. Để ổn định các thanh xoắn, 6 thiết bị giảm sốc ở các cặp bánh số 1,2 và 7. Các thiết bị giảm sốc giúp xe không bị đung đưa trên các thanh xoắn khi di chuyển. Bởi vì các bánh đi đường ở đầu thường chịu ảnh hưởng lớn của địa hình nên cặp bánh 1, 2 được trang bị thiết bị giảm sốc. Bánh xe cuối được trang bị thiết bị giảm sốc để ổn định xích xe trước khi đi vào bánh răng của bánh truyền động. Hệ thống truyền động của M1 bao gồm 4 số tiến và 2 số lùi.

Xích T-158 được bọc cao su rộng 61 cm, phần tiếp xúc với mặt đất dài khoảng 7,6m. Các mắt xích bị hỏng có thể được thay thế. Bình xăng bao gồm 4 khoang chứa 1.909 lít của M1 có thể giúp xe lái được trong khoảng 8 tiếng đồng hồ tuỳ theo điều khiện khác nhau. Trong điều kiện lý tưởng, một xe tăng cần 10 phút để nạp nhiên liệu, một trung đội(4 xe tăng) cần 30 phút. Mức tiêu thụ nhiên liệu trung bình:

  • 0,6 dặm (0,96 km) cần 1 gallon(3,785l) nhiên liệu.
  • Hơn 30 gallon (227l) đi được 1h trên địa hình lý tưởng.
  • 60 gallon (454l) khi di chuyển trên địa hình ghồ ghề.
  • Lưỡi cày mìn tăng 25% tiêu thụ nhiên liệu.
M1A2 Abrams hành quân trên sa mạc

Cần lưu ý rằng phiên bản M1A2 SEP chỉ có bình xăng 3 khoang dung tích 1.680 lít nên tầm hoạt động ngắn hơn(350 km) so với các phiên bản khác. Tốc độ di chuyển cao nhất trên địa hình gồ ghề của M1 là 48 km/h, cao gấp đôi so với M60A3. M1 có thể tăng tốc từ 0 lên 32 km/h chỉ trong 7s trên đường. Tốc độ di chuyển cao nhất trên đường trung bình khoảng 67 km/h cho phiên bản mang pháo 120mm. Tốc độ tối đa của M1 có thể cao hơn nếu không có thiết bị điều chỉnh vận tốc của động cơ. Trọng lượng lớn (M1A1 nặng 57 tấn, M1A2 nặng 67 tấn) khiến cho tốc độ di chuyển trên địa hình ẩm ướt và đất mềm cũng như khả năng vượt hào bị hạn chế nhiều, tuy nhiên nó giúp cho xe an toàn hơn khi lái trên địa hình ghồ ghề. M1 không có hiện tượng bay lên khỏi mặt đất sau khi vượt qua chướng ngại vật như các xe tăng có trọng lượng dưới 50 tấn, thay vào đó, nó lướt qua chướng ngại, xích xe vẫn áp sát mặt đường, cho phép tổ lái của xe M1 ít chịu rung lắc, điều này đặc biệt quan trọng đối với người nạp đạn (do M1 không có bộ nạp đạn tự động, nếu xe rung lắc quá mạnh trên đường ghồ ghề thì người nạp đạn sẽ không thể nạp đạn cho pháo được). Trọng lượng nặng và hệ thống treo thuỷ lực của M1 giúp cho nó di chuyển một cách êm ái trên địa hình ghồ ghề. Động cơ turbine khí giúp M1 di chuyển ít ồn và tuổi thọ động cơ cao hơn so với động cơ diesel của M60.

Tuy nhiên, M1 có một điểm yếu là nó không có khả năng lặn sâu so với nhiều loại xe tăng khác. Thiết bị lặn của M1 chỉ cho phép xe vượt qua chỗ nước sâu không quá nóc xe (khoảng 1,3 mét), ở độ sâu lớn hơn thì nó sẽ bị chìm. Trong khi đó, những chiếc T-72 của Nga có thể vượt sông với độ sâu lên tới trên 3,5 mét.

Nhờ có hệ thống lọc không khí trước khi đưa vào động cơ nên M1 không chịu nhiều ảnh hưởng do cát bụi và thời tiết. Tuy nhiên, vì tiêu thụ quá nhiều nhiên liệu nên thường chỉ có những xe bồn cỡ lớn mới có thể cung cấp đủ nhiên liệu cho một lực lượng M1, và những xe bồn này có khả năng di chuyển địa hình cũng như chịu đựng thời tiết kém hơn so với xe tăng nên việc tiếp tế thường tốn nhiều thời gian.[7]

Một rắc rối đã phát sinh qua thời gian, đó là các phiên bản cải tiến của M1 ngày càng nặng hơn (do gắn thêm các lớp giáp và thiết bị mới), trong khi động cơ xe thì không thay đổi. Xe tăng M1 nguyên bản không quá nặng, vào khoảng 55 tấn, nhưng đến phiên bản M1A2SEPv3 thì xe đã nặng tới 69 tấn, cộng thêm bộ giáp phản ứng nổ ARAT thì sẽ lên tới 73,6 tấn. Nếu kết hợp với hệ thống phòng thủ chủ động Trophy, tổng trọng lượng của xe tăng M1A2SEPv3 sẽ lên tới 75,8 tấn, là xe tăng nặng nhất thế giới. Kết quả là tỷ lệ công suất trên trọng lượng đã giảm từ 25,8 mã lực/tấn ở xe tăng M1 đời đầu xuống còn 20,4 mã lực/tấn ở M1A2SEPv3. Đây là mức thấp hơn nhiều so với các loại xe tăng mới của Nga như T-72B4, T-90M, T-14 Armata. Trọng lượng quá lớn của xe tăng M1A2SEPv3 sẽ tác động tiêu cực đến khả năng cơ động chiến trường của xe tăng, các các bộ phận chuyền động sẽ bị hao mòn nghiêm trọng, thường xuyên hỏng hóc, giảm độ tin cậy và giảm đáng kể tuổi thọ. Ngoài ra, một xe tăng nặng trên 70 tấn sẽ rất dễ làm hỏng đường hoặc sập cầu, vượt quá sức kéo của các loại xe sửa chữa, và nó cũng không thể sử dụng được ở khu vực rừng núi và đầm lầy. Đây là những vấn đề mà xe tăng Tiger II nặng 70 tấn của Đức cũng từng gặp phải trong Thế chiến 2. Có những phân tích lo ngại rằng 1 loại xe nặng như M1A2SEPv3 không thể điều động nhanh chóng, hiệu quả như xe tăng Nga, vốn không có loại nào nặng quá 50 tấn[8]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: M1 Abrams http://www.anao.gov.au/director/publications/audit... http://www.army-technology.com/projects/abrams/ http://www.army-technology.com/projects/abrams/ind... http://armyrecognition.com/june_2015_global_defens... http://www.armytimes.com/story.php?f=1-292925-2348... http://www.datviet.com/khoanh-khac-xe-tang-m1-my-t... http://www.defense-update.com/products/m/M1A1AIM.h... http://www.defense-update.com/products/m/M1A2SEP.h... http://www.defense-update.com/products/t/tusk.htm http://www.defenseindustrydaily.com/2006/08/the-20...